Đối tượng thuộc hàng thừa kế thứ nhất sẽ không được quyền thừa kế trong trong trường hợp nào. Chúng ta sẻ phân tích mối quan hệ giữa những người thuộc hàng thừa kế này để biết được cụ thể những trường hợp đó.
Là vợ, chồng của nhau
Vợ chồng là hai đối tượng ở hàng thừa kế thứ nhất khi một trong hai qua đời. Tuy nhiên, quy định này chỉ có hiệu lực khi vợ và chồng có hôn thú hợp pháp. Ngoài ra, cần lưu ý mối quan hệ giữa vợ và chồng như sau:
* Đối với trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà sau đó 1 người chết thì người còn sống vẫn được quyền hưởng thừa kế di sản.
* Đối với trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hay đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án/ quyết định chưa có hiệu lực pháp lý, nếu một người chết thì người còn sống vẫn có quyền được hưởng di sản thừa kế (trong khoản 2 Điều 655 Bộ luật dân sự 2015)
*Người đang là vợ/ chồng của 1 người tại thời điểm người đó chết thì dù sau này đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản (Khoản 3 Điều 655 BLDS 2015).
* Đối với trường hợp 1 người có nhiều vợ, nhiều chồng trước ngày 13/1/1960 tại Miền Bắc, trước ngày 25/3/1977 tại Miền Nam, cán bộ Miền Nam tập kết ra Bắc (trong giai đoạn từ năm 1954 đến 1975) lấy vợ, lấy chồng khác và kết hôn sau đó không bị Tòa án hủy bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp lý. Trong trường hợp đó, người chồng, người vợ được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của tất cả những người chồng/vợ và ngược lại.
Cha mẹ đẻ – con đẻ và ngược lại
Cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ được thừa kế theo pháp luật di sản của nhau. Không những là quy định của pháp luật thừa kế Việt Nam mà hầu hết các quốc gia đều có quy định pháp luật như vậy. Con đẻ được hưởng thừa kế của cha mẹ đẻ không kể là con trong giá thú hay con ngoài giá thú và ngược lại.
Cha mẹ nuôi – con nuôi và ngược lại
* Con nuôi chỉ có mối quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi của mình. Con nuôi không có mối quan hệ thừa kế với cha đẻ, mẹ đẻ của cha nuôi và mẹ nuôi mình. Cha đẻ, mẹ đẻ của người nuôi con nuôi cũng sẽ không được thừa kế tài sản của người con nuôi đó.
* Khi cha nuôi, mẹ nuôi kết hôn với người khác, khi đó người con nuôi không trở thành con nuôi của người được kết hôn cùng cha nuôi, mẹ nuôi của mình và đương nhiên sẽ không phải là người thừa kế của nhau theo pháp luật
* Người đã làm con nuôi người khác vẫn có quan hệ thừa kế với cha đẻ, mẹ đẻ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột, cô, bác, chú, dì, cậu ruột như những người không làm con nuôi người khác.
Con riêng – bố dượng, mẹ kế
Nếu giữa con riêng - bố dượng, mẹ kế có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau như cha con, mẹ con thì được hưởng thừa kế tài sản của nhau. Pháp luật cũng quy định về quyền hưởng thừa kế tài sản của họ theo quy định trong Điều 677 và Điều 678 Bộ luật dân sự 2005.